I.
GIỚI THIỆU
Nghề nuôi cá
lồng biển đã phát triển từ 140 năm trước, đầu tiên từ Campuchia, Nhật Bản và
dần lan rộng sang các nước khác trên khắp thế giới. Nghề nuôi cá lồng biển có
đặc điểm như tận dụng mặt nước biển còn nhiều, không chiếm đất nông nghiệp,
năng suất, sản lượng cao, hiệu quả kinh tế cao, giải quyết vấn đề nguồn lợi cá
biển ngày càng giảm xúc…nên ngày càng có xu hướng mở rộng.
Nghề nuôi cá
lồng biển ở nước ta có từ năm 1990 và đang phát triển mạnh ở các tỉnh Quảng
Ninh, Hải Phòng, các tỉnh ven biển miền Trung, Vũng Tàu, Cà Mau, Kiên Giang…Các
đối tượng nuôi chủ yếu là cá mú, cá hồng, cá giò, cá chẽm,...
Nuôi cá lồng
biển là một nghề nuôi mới ở nước ta so với thế giới và còn có nhiều khó khăn,
bất cập. Thông qua bài tìm hiểu này, chúng tôi tiến hành tìm hiểu về một số vấn
đề liên quan tới kỹ thuật và hiện trạng nuôi cá biển trong lồng bè.
II.
SƠ LƯỢC VỂ KỸ THUẬT NUÔI CÁ BIỂN TRONG LỒNG BÈ.
II.1. CHỌN VỊ TRÍ NUÔI CÁ LỒNG BÈ:
Lựa chọn vị trí đặt lồng nuôi cần
quan tâm tới các điều kiện như sau:
Điều kiện tự nhiên:
- Tránh gió tốt hạn chế sự hư hại
lồng bè do bị va đập.
- Địa hình tương đối bằng phẳng, độ
dốc nhỏ, chất đáy bùn cát để dễ cố định và hút bỏ cặn bẩn, chất thải.
- Nước sạch, không gần các bến bãi
hay khu dân cư, khu công nghiệp.
- Có dòng chảy nhẹ.
- Độ sâu vừa phải, từ 6m trở lên và
không vượt quá 15m. Khi thủy triều xuống thấp, khoãng cách giữa đáy và ồng biển
cần đảm bảo từ 2m trở lên.
- Nguồn điện và giao thông thuận
lợi cho sản xuất, sinh hoạt và tiêu thụ sản phẩm.
Điều kiện chất lượng nước:
- Nhiệt
độ: 8 – 300C, tốt nhất là 20 – 280C.
- Độ mặn : 20 – 30‰.
- pH : 7,5 – 8,5.
- DO : >= 5mg/l.
Điều
kiện xã hội :
- Chứng
tờ được giao quyền sử dụng mặt nước biển nhằm đảm bảo quyền lợi cho người nuôi.
- Cần
quan tâm các vấn đề về an ninh và phong tục tập quán vùng nuôi.
Khu
vực nuôi :
Nuôi
ven bờ hay nuôi biển khơi cần được xác định để có sự chuẩn bị thích hợp.
-
Vùng
ven bờ : Là vùng nước tương ứng với vùng dưới triều từ bờ tới độ sau 200 –
500m.
-
Vùng
khơi : Bao gồm vùng trung tâm hải dương với độ sâu tương ứng từ 500m trở
xuống ( Đặng Ngọc Thanh,1974).
II.2 XÂY DỰNG LỒNG BÈ NUÔI BIỂN:
Lồng bè nuôi biển chia làm hai loại lớn là lồng nuôi các
vùng nước gần bờ và lồng nuôi vùng biển sâu. Ở nước ta, lồng bè nuôi gần bờ
chiếm ưu thế, lồng bè nuôi xa bờ chưa được chú ý nhiều.
Lồng
nuôi ở các vùng nước gần bờ :
Các loại lồng bè: Có 3 loại lồng: Lồng nổi, lồng cố định, lồng chìm. Trong
đó lồng nổi là loại phổ biến nhất.
- Lồng nổi: Dùng
phao để nâng lồng nổi trên mặt nước, lồng có thể di chuyển, thao tác thuận
tiện, tình trạng chất nước tốt hơn kiểu lồng cố định.
Hình 1: Một dạng bè nổi nuôi cá trên biển |
|
- Lồng cố định:
Là loại lồng được đặt một chỗ bằng cọc tre, gỗ hoặc bê tông, dung tích lồng
luôn thay đổi do thủy triều, chỉ thích hợp với những nơi có chênh lệch thủy
triều thấp hoặc ở trong vịnh kín.
|
- Lồng chìm:
Kiểu lồng này thường áp dụng ở những nới có sóng gió lớn hoặc để dùng nhốt cá
quá đông. Nó có ưu điểm như giảm nhẹ được rêu bám vào lưới lồng, nhiệt độ tương
đối ổn định. Tuy nhiên, khó quản lý, cho ăn phải qua ống và khó quan sát.
Kích
cỡ lồng nuôi: Tùy vào quy mô sản xuất. Các kích cỡ
thường được sử dụng như:
|
- Trung Quốc :
4x4x4m, 5x5x4m, 6x6x4m, 7x7x5m, …
- Nhật Bản và Hàn
Quốc thường dùng cỡ lồng 10x10m, 12x12m, 14x14m và các loại lồng cỡ 5x5m để
ương cá giống.
- Nauy: Dùng
lồng tròn loại lớn có đường kính 60x70m, dung tích 15000m3, thậm chí
còn có loại cực lớn tới 55000m3.
Cấu
tạo chủ yếu của lồng nuôi gần bờ:
- Khung lồng:
Gỗ, tre, sắt, hợp kim nhôm…Thường dùng gỗ xẻ làm khung lồng nhờ những đặc điểm
như dễ lắp ghép, giá thành thấp, ít tốn nhân lực…
- Phao (lồng nổi): Phao xốp, thùng phi,..
- Áo lưới: Gồm
áo lưới kim loại và áo lưới ni lông. Áo lưới ni lông thường được sử dụng do
chúng nhẹ, giá rẻ, dễ lắp ráp, tháo bỏ…
- Lưới nắp và
đáy lót: Che sáng và hạn chế thức ăn rơi xuống đáy biển.
- Chì và các
thiết bị cố định lồng.
Lồng nuôi vùng biển sâu :
Các
loại lồng nuôi biển sâu:
-
Lồng nuôi trọng lực kiểu Nauy
-
Lồng lưới kiểu nổi mạnh, toàn khối hình
trống của Nauy.
-
Kiểu lồng co bướm của Mỹ.
-
Lồng lưới cột trụ do Mỹ sản xuất.
-
Lồng dây nổi của Nhật.
-
Lồng lưới tổ hợp hình vuông của Nhật.
Hình 5: Các dạng lồng nuôi biển khơi. |
-
Khung lồng: Ống sắt mạ kẽm, khung cao su
mềm giàu tính đàn hồi,…
-
Lưới: Là sợi Dyneema.
-
Các thiết bị cố định chịu lực kéo lớn,
cố đinh mạnh.
Trong phạm vi bài tìm hiểu nhỏ này,
chúng tôi chỉ xin trình bày về nuôi cá biển trong lồng bè vùng gần bờ.
II.3.MỘT SỐ LOÀI CÁ NUÔI TRONG LỒNG BÈ:
Hình 7: Cá mú dẹt ( Cromileptes altivelis)
|
Hình
8: : Cá giò/bớp (Rachyncentron canadum)
|
Hình
9: Cá chẽm ( Lates calcarifer)
|
II.4
CHĂM SÓC VÀ QUẢN LÝ:
Đối với lồng:
- Cần định kỳ vệ sinh lưới, loại bỏ
những sinh vật bám như hà, sun, rong rêu...và thay lưới có cỡ mắt lưới phù hợp
với cỡ cá nuôi để đảm bảo thông thoáng cho lồng nuôi.
- Thường xuyên lặn kiểm tra lưới.
Dùng bàn chải có cán dài chà rửa và vệ sinh lồng. Có thể thả 15 - 30 con cá dìa
để cá ăn các loài rong tảo bám vào lưới.
- Vào mùa mưa bão, phải thường
xuyên kiểm tra hệ thống neo của bè nuôi. Đinh kỳ kiểm tra các bộ phận lồng nuôi
(phao, khung, dây neo, lưới…) và khi cần thì kịp thời bảo dưỡng hoặc thay thế
để giảm thiểu rủi ro do hư hỏng lồng.
- Cần phải thường xuyên theo dõi
lồng. Do luôn luôn ngập nước, lồng có thể bị phá hại bởi các động vật thủy sinh
như cua, rái cá,... Nếu lồng bị hư hỏng phải lập tức sửa chữa hoặc thay mới.
- Hàng ngày sau mỗi lần cho cá ăn
phải kiểm tra nếu thấy thừa thức ăn ở đáy lồng phải vệ sinh để tránh ô nhiễm,
tránh cua cá, địch hại đến phá lồng.
Đối với cá:
- Hàng tháng đo mẫu để xác định
tăng trưởng của cá (chiều dài và khối lượng cá), qua đó xác định được khối
lượng đàn cá trong lồng để điều chỉnh lượng thức ăn cho hợp lý.
- Nên dành một số bè trống, để sử
dụng khi cần thiết như chuyển cá giống hay đổi lưới cho lồng nuôi khi bị tắc
nước do vi sinh vật bám.
- Trong quá trình nuôi cá, ghi chép
nhật ký Kinh tế - Kỹ thuật làm cơ sở rút kinh nghiệm cho các vụ nuôi sau.
- Hàng tháng phải phân lọc cá cùng
cỡ nuôi riêng từng lồng, tránh trường hợp cá lớn tranh mồi của cá bé và tránh
hiện tượng ăn nhau.
- Lồng nuôi cá cần chuyển sang địa
điểm mới sau 2 - 3 năm nuôi, để môi trường nuôi có thể hồi phục.
Cho ăn:
Các
loại thức ăn
|
Thức
ăn tươi
|
|
Ưu
điểm
|
- Có mùi vị hấp dẫn,
dễ tiêu hóa, hấp thụ.
- Không phải qua chế
biến, dễ sử dụng.
- Gía thành phù hợp.
|
- Không gây ô nhiễm
môi trường.
- Có thể đáp ứng một khói lượng lớn vào bất kỳ thời điểm nào.
- Chủ động thức ăn
trong suốt quá trình nuôi.
- Hệ số thức ăn thấp.
|
Nhược
điểm
|
- Gây ô nhiễm môi
trường
- Rất khó đáp ừng một
khối lượng lớn thức ăn khi qui mô phát triển.
- Bị động vào mùa mưa
bão dẫn đến chất lượng thức ăn không ổn định.
- Hệ số thức ăn cao.
|
- Cá không quen sử
dụng vì vậy phải tập cho cá ăn từ lúc đầu.
- Khi cho ăn cần chú
ý vào kích cỡ miệng cá theo giai đoạn phát triển, tập tính ăn mồi của từng
loại cá mà có cỡ mồi và cách cho ăn phù hợp.
|
Cách
cho ăn:
- Tốt nhất cho ăn vào lúc lặng sóng
ban ngày, nếu không kịp thì cho ăn ở phía trước để giảm bớt thức ăn bị trôi.
- Cá còn nhỏ ngày ăn 3 – 4 lần, cá
lớn ngày ăn 2 lần. Những cá nhát ăn thả thêm cá háu ăn để kích thích cá tăng
sức ăn mồi. Ví dụ: Cá mú nhát ăn, thả thêm một ít cá tráp đen, cá tráp vây vàng
có tập tính đớp mồi nhanh để kích thích.
Phòng trị bệnh cho cá:
- Trong quá trình nuôi cần theo dõi
tình trạng sức khoẻ và bệnh tật của cá để kịp thời xử lý.
- Phòng bệnh cho cá: Trước khi thả
cá giống hoặc san cá trong quá trình nuôi, tắm cho cá bằng thuốc tím hoặc nước
ngọt. Khi bắt cá thao tác phải nhẹ nhàng tránh làm sướt cá, làm cá dễ nhiễm
bệnh
- Tăng cường sức đề kháng cho cá:
Định kỳ bổ sung các loại vitamine và khoáng chất vào thức ăn.
II.5. THU HOẠCH
Trong quá trình
nuôi, khi cá đạt cỡ thương phẩm có thể thu tỉa để bán dần và nên thu hoạch và
bán hết khi có đầu ra để quay vòng chu kỳ nuôi mới. Cách thu hoạch cá tùy theo
dạng lồng nuôi.
III.
NHẬN XÉT CHUNG
Trở ngại trong nuôi cá biển trong
lồng bè:
- Bẩn lồng: Lồng nuôi cá bị dơ bẩn
nặng trong quá trình nuôi là vấn đề khó có thể tránh khỏi, đặc biệt là ở các
vùng nhiệt đới. Chua and Tend (1980) đã ghi nhận lại rằng, do sự gây dơ bẩn
nhanh chóng của các sinh vật như hào, giun, rong, tảo ... mà làm lồng có mắc
lưới 37mm ở eo biển Penang bị giảm lưu thông nước đến 60% sau 2 tuần ngâm trong
nước và đến 87% sau 1 tháng. Lồng có mắc lưới 12,7 mm lưu thông nước giảm 93%
sau 3 tuần hoạt động.
- Nguồn giống: Hiện tại, nguồn
giống cung cấp cho nghề nuôi cá lồng vẫn còn dựa chủ yếu vào khai thác tự
nhiên. Tuy nhiên, sản lượng khai thác không thể đáp ứng được nhu cầu con giống
để mở rộng sản xuất hơn. Hơn nữa do tỷ lệ con đực (cá mú) trong quần thể tự
nhiên ít hơn 5%, việc thu gom cá đực cho nghiên cứu và sản xuất giống cũng bị
hạn chế.
- Thức ăn: Do việc nuôi cá lồng bị
phụ thuộc vào nguồn thức ăn là cá tạp, khả năng cung cấp sẽ bị động và vì thế
cho ăn không đều. Thức ăn là cá tạp không đảm bảo đầy đủ dinh dưỡng cho cá
nuôi, và cá tạp thối bẩn cũng dễ gây ra bệnh cho cá.
- Chất lượng nước thay đổi: Việc
nuôi cá lồng còn bị ảnh hưởng mạnh bởi sự thay đổi dòng chảy sóng gió, và các
yếu tố khác như độ mặn, pH, độc tố do nhiễm bẩn, tảo nở hoa... Vì thế, trước
khi nuôi, cần xem xét và chọn vị trí thích hợp.
- Thời tiết, khí hậu: Các vấn đề
như bão, lũ…ảnh hưởng tới năng suất nuôi, quản lý hệ thống nuôi.
- Địch hại: Nhiều quan sát cho thấy
rằng nuôi cá trong lồng có nhiều địch hại như rắn biển, cá dữ phá lồng hay vào
lồng gây hại cho cá nuôi, chim cũng là địch hại nguy hiểm cho cá khi lồng không
được bảo quản kỹ.
- Bệnh cá: Cá biển nuôi lồng thường
mắc một số bệnh ký sinh và vi khuẩn.
Các vấn đề cần lưu ý để đảm bảo sức
khỏe cho cá trong nuôi lồng:
- Chọn giống loài nuôi ít
mẫn cảm với bệnh tật
- Chọn
vị trí cẩn thận
- Cá
giống khoẻ mạnh và kích cỡ hợp lý
- Thường
xuyên theo dõi, chăm sóc cá nuôi để chuẩn đoán tình trạng sức khoẻ cá
- Mật
độ nuôi vừa phải
- Không
cho cá ăn quá thừa cũng như quá thiếu
- Thức
ăn phải tươi, không có mầm bệnh
- Loại
bỏ cá chết ra khỏi lồng và hủy cá
- Ngăn
ngừa địch hại
- Vệ
sinh dụng cụ thường xuyên
- Thao
tác nhẹ nhàng khi đánh bắt cá
IV.1. HIỆN TRẠNG VÀ TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN NUÔI LỒNG
BIỂN CỦA VIỆT NAM :
IV.1
HIỆN TRẠNG:
- Kỹ thuật
nuôi cá lồng biển của người dân còn hạn chế.. Hình thức nuôi còn thủ công, thức ăn chủ yếu là tươi sống, thức ăn công nghiệp
cũng được sử dụng nhưng còn ít, trong nước chưa có những nghiên cứu sâu về dinh
dưỡng cá biển nuôi.
- Giống: chủ yếu
tự nhiên, giống
nhân tạo trong nước còn ít,
giống nhập thì tỷ lệ sống không ổn định. Trong nhiều vụ nuôi, giá con giống bị
đẩy lên cao. Các kỹ thuật sản xuất giống cá biển trong nước mới hình thành và
còn nhiều hạn chế. Con giống sản xuất ra chưa cung cấp đủ cho các mô hình nuôi.
- Mô hình nuôi tự phát theo sự
thành công của những hộ nuôi trước, đơn giản,
qui mô nhỏ.Trang
thiết bị phục vụ nuôi biển chưa phát triển.
- Môi trường nuôi chưa có các giải pháp quản lý phù hợp và chưa có các khảo sát đánh giá có hệ thống. Qui chế quản lý môi trường trong nuôi biển chưa có chung cho cả nước, từng địa phương có qui định riêng.
Những nơi chưa
quy hoạch vùng nuôi kịp thời dẫn tới sự phát triển tràn lang của các lồng nuôi gây
những hậu quả nghiêm trọng về môi trường và hiệu quả kinh tế của hộ nuôi. Tiêu
biểu như ô nhiễm môi trường do lồng nuôi cá biển ở Cát Bà, Khi xảy ra các ván
đề ô nhiễm mới tiến hành cưỡng chế, giải tỏa gây hao người tốn của hay như
thiệt hại trên các lồng nuôi ở Kiên Giang do những nơi nước tốt thì thường bị
bão, những nơi khuất sóng gió thì lại là điểm neo đậu
của các tàu đánh cá, tàu chở khách, tàu tải... khi biển động mạnh. Điều
đáng lo là trong số hàng trăm tàu ghe cặp bến lên cá hoặc sửa chữa nhỏ thường
hay xả dầu, nhớt cặn xuống biển. Những chất thải độc hại này kết từng mảng lớn
theo chiều gió tấp vào các lồng bè, cá không sống nổi. Vào mỗi buổi chiều tối,
rác thải từ các chợ trên đảo cũng được tuôn thẳng xuống biển. Hôm sau, đã thấy
những đống chai lọ, bọc ni lon bập bềnh bám quanh lồng bè, chẳng vớt xuể.
Quy hoạch khi mới dừng lại
ở việc khoanh vùng nuôi thì trong vùng đó vẫn phổ biến tình trạng tự phát nuôi
trồng, được đến đâu hay đến đó. Ở khu vực thuận lợi, người ta đổ xô đến thả
lồng bè, bỏ qua hướng dẫn khoa học bất chấp khuyến cáo ô nhiễm. Khi vùng nuôi
bị suy thoái, ô nhiễm, người ta sẽ bỏ đi tìm chỗ khác và những công trình nuôi
bị vứt lại không thương tiếc.
- Việc
chưa đặt ra cơ sở pháp lý cho nghề nuôi lồng trên biển cũng là một khó khăn
đáng kể. Chính quyền không có căn cứ pháp lý để thi hành với những lồng bè nuôi
trái phép, người dân không biết kêu ai khi quyền lợi bị xâm phạm.
- Dịch bệnh
trong nuôi biển
tuy chưa lớn nhưng đã có một số tổn thất nhất định, nếu không được khắc
phục kịp thời sẽ trở thành một trở ngại cho nghề nuôi cá biển tương lai.
- Nguồn nhân lực chuyên nuôi biển còn hạn chế. Hạ tầng
và dịch vụ còn đang phát triển. Hệ thống nghiên cứu phục vụ nuôi biển đang ở giai đoạn bắt đầu. Thiếu vốn, chính sách đầu tư phát triển nuôi biển chưa đáp ứng yêu cầu,…
IV.2
TIỀM NĂNG:
Khách quan:
- Diện tích nuôi rộng và đa dạng về loại hình thuỷ vực: Hiện có 40 vạn ha
diện tích vịnh, eo biển, đầm phá có khả năng nuôi trồng thủy sản. 17 vạn ha có
điều kiện để nuôi lồng biển (Ngô Trọng Lư, 2004).
- Đối tượng
nuôi phong phú: Hiện có ít nhất 54 loài cá biển được nuôi ở vùng nhiệt đới và á
nhiệt đới. Trong số các đối tượng cá biển nuôi, nhóm cá hồi là đối tượng được
nuôi phổ biến ở vùng ôn đới Châu Âu. Trong khi đó, vùng nhiệt đới có thành phần
loài nuôi khá phong phú với các nhóm đối tượng như cá đối, cá mú, cá chẽm, cá
tráp, cá hồng, cá cam, cá bớp, cá măng… Có định hướng
phát triển về nuôi biển của Bộ Thủy Sản.
- Đang được đầu tư bước đầu cho nghiên cứu và
phát triển nuôi biển.
- Lực lượng
lao động đông đảo.
Chủ quan: Các
chính sách của
Chính phủ hổ trợ phát triển nuôi thuỷ sản biển:
§ Chương trình 224 - Phát triển nuôi trồng thuỷ sản
giai đoạn
1999-2010
- Mục tiêu: Đảm bảo
an ninh thực
phẩm, tạo nguồn nguyên liệu cho chế biến
- Chỉ tiêu:
• 200.000 tấn cá biển nuôi trong 40.000 ha
mặt biển và 40.000 lồng. Đối tượng nuôi là cá song, hồng, cam, vược, măng...
• 380.000 tấn nhuyễn thể nuôi trong 20.000 ha chủ yếu là nghêu, ngao, sò
huyết, vẹm, ốc hương, bào ngư,
hàu...
• 50.000 tấn khô rau câu trồng trong 20.000 ha. Đối tượng là rau câu chỉ vàng, rong thắt, rong cước, rong sụn
• Ước tính đóng góp của hải
sản nuôi trong kim ngạch xuất khẩu theo chương trình 224
sẽ chiếm khoảng 25-28%
§ Chiến
lược
:”Phát triển
nuôi trồng
thuỷ sản bền
vững
góp phần
xoá đói giảm
nghèo-SAPA”
• Có sự quan tâm đặc biệt tới các cộng đồng ngư dân-chuyển đổi cơ cấu kinh tế tăng tỷ lệ nuôi trồng
• Chính phủ đang chỉ đạo xây dựng chính sách hổ trợ cho 100 xã nghèo bãi
ngang trong đó quan tâm tới
phát triển nuôi thuỷ hải sản.
§ Chính sách sử dụng
đất,
mặt
nước.
• Chính phủ cho phép chuyển đổi các vùng cát sang
nuôi trồng thuỷ sản (nuôi tôm và nuôi cá
biển).
• Hiện nay, chưa có luật Thuỷ sản,
nên việc sử dụng mặt biển được cho phép tuỳ các chính quyền địa phương.
• Chính sách giao khoáng mặt nước
biển cho nhân dân vừa được nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện tại nhiều địa
phương.
§ Chính sách hổ trợ sản xuất
giống.
• Thủ tướng
Chính phủ ban hành quyết định 25/08/2000 "Một số chính
sách khuyến
khích phát triển
giống thuỷ sản”.
• Đầu tư xây dựng 3 trung tâm giống quốc gia hải sản.
• Khuyến khích nhập công nghệ sản xuất giống của các đối tượng mới.
• Các tỉnh khuyến khích xây dựng trại giống với các chế độ ưu tiên (hạ tầng, trợ vốn đầu tư...).
§ Chiến
lược
khôi phục
nguồn
lợi
tự nhiên.
• Một số tỉnh đã đang thả tôm sú giống ra biển nhằm khôi phục nguồn lợi, có thể sẽ theo con đường này với các đối tượng khác.
§ Đầu
tư nghiên cứu
khoa học
và khuyến
ngư.
• Tỷ lệ đầu tư nghiên cứu khoa học cho lĩnh vực phát triển nuôi biển được tăng lên (theo tỷ lệ ở Viện 1: tỷ lệ tới 60-65% tổng số đầu tư). Các hoạt động khuyến ngư về phát triển nuôi biển cũng tăng hơn nhiều so với trước đây.
• Thành lập các đề án khuyến nông –
khuyến ngư tầm xa để có chiến lược phát triển nuôi biển hiệu quả trong thời
hian tới.
§ Tổ chức
• Tổ chức
của các tỉnh ven biển thuận lợi cho việc triển khai phát triển: Có sở thuỷ sản, Trung tâm khuyến ngư và có Phòng thuỷ sản ở một số huyện trọng điểm.
§ Đầu
tư hạ tầng và phát triển
• Đã có ít nhiều đầu tư hạ tầng cho nuôi biển (không tính đầu tư cho nuôi tôm) - đầu tư lồng bè tại Hạ long, Cát bà....
• Một số doanh
nghiệp đã có định hướng đầu tư nuôi lồng bè biển, nuôi các đối tượng khác nhau như cá mú,
cá chẽm, cá giò…
IV.3
ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN:
Xu thế phát triển của nghành thủy
sản trong tương lai:
Các hội nghị
Nuôi trồng thủy sản thiên niên kỷ do NACA/FAO đồng tổ chức cũng như hội nghị do
SEAFDEC tổ chức khẳng định xu thế phát triển liên tục của nuôi trồng thủy sản
trong các thập niên sau. Trong quá trình phát triển, càng ngày nhu cầu sử dụng
các đối tượng có giá trị càng tăng và giảm dần các đối tượng có giá trị thấp.
Sẽ có nhiều
chính sách hỗ trợ phát triển nuôi trồng thủy sản. Các công nghệ về sản xuất
thức ăn, chọn giống… nhằm giảm giá thành sản xuất, giảm rủi ro, dịnh bệnh được
hình thành. Nuôi biển khơi tận dụng hợp lý nguồn lợi nước sẽ được chú ý đặt biệt. Tình hình chuyển
giao công nghệ và tiếp cận công nghệ sẽ tốt hơn. Các vấn đề vệ sinh an toàn
thực phẩm được chú trọng và trong nhiều trường hợp trở thành rào cản thương mại
trong thương mại thủy sản.
Việt Nam là
một nước có nhiều biển, trong tương lai nuôi trồng biển sẽ vươn lên chiếm vị
trí quan cao trong khu vực nuôi trồng và khai thác thủy sản mà đặt biệt là nuôi
lồng ở các vùng biển sau. Nên chăng cần có những bước chuẩn bị.
Định hướng cho hoạt động nuôi cá biển
trong lồng bè:
- Phân vùng nuôi phù hợp với qui
hoạch chung toàn vùng.
- Xây dựng luật, chính sách, qui
chế, qui tắc quản lý nuôi thủy sản bền vững và phù hợp với các luật, qui tắc
của các ngành kinh tế khác.
- Xây dựng và hoàn thiện cơ sở hạ
tầng.
- Giải quyết xung đột giữa các
thành phần kinh tế, các hoạt động sản xuất trên biển.
- Đánh giá tác động kỹ thuật, môi
trường cho từng dự án phát triển nuôi biển, tránh gây tác động xấu đến kinh tế,
xã hội và môi trường chung trong vùng.
- Đa dạng hoá đối tượng nuôi biển, hình thành tập đoàn giống các đối tượng nuôi.
- Đa dạng hoá hệ thống nuôi (hệ thống canh tác).
- Nuôi lồng vùng biển sâu cần được
chú ý nhờ có một số ưu việt sau:
+ Mở rộng vùng
nuôi cá, giảm áp lực lên môi trường do giảm số lồng nuôi ven bờ.
+ Môi trường
nuôi ổn định, cá khỏe, ít bệnh tật, nhiều thức ăn tự nhiên nên chất lượng thịt
cũng cao hơn.
+ Nâng cao năng
suất: Một lồng chu vi 50m có thể nuôi 200 tấn cá (Ngô Trọng Lư, 2004).
+ Nâng cao tính
khoa học do áp dụng những thiết bị hiện đại vào quản lý và sản xuất.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
Kỹ
thuật sản xuất giống và nuôi cá biển – Trần Ngọc Hải,
Nguyễn Thanh Phương – Trường ĐH Nha Trang - 2006, trang 5 – 11.
Kỹ
thuật nuôi cá lồng biển tập I – Ngô Trọng Lư, Thái
Bá Hổ, Nguyễn Kim Độ - NXB Nông Nghiệp –TP. Hồ Chí Minh – 2004 – trang 3 – 32.
Bài
giàng tóm tắt kỹ thuật nuôi cá biển – Nguyễn Văn Trai –
Trường ĐH Nông Lâm TP. Hồ C hí Minh – 2004
- trang 18 – 21.
Nuôi
cá lồng bè trên biển Kiên Giang – Việt Tiến, Nhân
Dân, 04/01/2010 http://www.vietlinh.com.vn - Ngày truy cập 03/10/2010.
Xu
thế phát triển nuôi trồng thủy sản Việt Nam và thế giới – Lê
Thanh Lựu – Viện nghiên cứu NTTS I.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét